A small tool to view real-world ActivityPub objects as JSON! Enter a URL
or username from Mastodon or a similar service below, and we'll send a
request with
the right
Accept
header
to the server to view the underlying object.
{
"@context": "https://www.w3.org/ns/activitystreams",
"type": "OrderedCollectionPage",
"orderedItems": [
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862560927841243136",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "Muốn con độc lập hay phụ thuộc tất cả thuộc về chame<br /><br />.....<br /><br />Cho đến nay, nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển của trẻ. Những đặc điểm về tinh thần và nhân cách của trẻ được định hình, phát triển và được cố định vào giai đoạn từ 6 – 7 tuổi. Độc lập hay phụ thuộc trong cuộc sống hàng ngày là một đặc điểm về nhân cách/tính cách được hình thành từ trong những năm đầu đời. Hầu hết các bậc cha mẹ, người lớn trong gia đình và cả giáo viên đều không nhận ra được sự thật đó, do vậy họ thích làm mọi thứ cho trẻ. Ví dụ, trong xã hội chúng ta, nguyên nhân cốt lõi của việc những người đàn ông trở nên phụ thuộc là bởi họ nhận được những sự giúp đỡ không cần thiết trong thời thơ ấu. Các bậ mẹ và những người lớn trong gia đình trong mọi lúc có thể sẽ làm hầu hết các việc cho trẻ. Mọi việc được làm cho trẻ hơn là giúp trẻ tự làm chúng. Chúng ta không hiểu rằng mọi nỗ lực để trưởng thành chính là nỗ lực để độc lập. Trong suốt quá trình như thế, phụ thuộc vào người khác trở thành một đặc tính của trẻ. Sau này, trẻ trở nên không thể không phụ thuộc. Trong hầu hết các gia đình, chúng ta có những người đàán ông luôn yêu cầu mẹ, chị em gái và vợ mình làm mọi thứ cho mình:<br />• “Mang thức ăn cho con”<br />• “Mang nước cho con” <br />• “Mang những cái đĩa này đi”<br />• “Giày của con ở đâuu?”… <br />Một người vợ diễn tả sự lo lắng của mình nói: “Anh ấy gọi tôi lấy nước ngay cả khi tôi lên lầu… Tôi tự hỏi liệu anh ấy có bị chết khát nếu tôi không ở đó?!”. Phản ứng của một người đàn ông bình thường có thể sẽ nghiêm trọng nếu như những mong muốn của họ không được thỏa m~n. Bởi vậy, với việc làm mọi điều cho trẻ trong thời thơ ấu, chúng ta không chỉ tạo ra một khó khăn/ vấn đề mà là lớp lớp những vấn đề chồng chất không chỉ cho chính bản thân trẻ mà còn cho những mối quan hệ tương lai trong cuộc sống của trẻ. Hãy nói đến những người phụ nữ trong mối quan hệ này. Trong mọi lúc có thể, những người mẹ và các thành viên khác trong gia đình tiếp tục làm mọi thứ cho trẻ. Tuy nhiên, khi trẻ lớn dần lên va thời điểm chính xác để tiếp thu những hoạt động thực tế của cuộc sống qua đi, đó cũng chính là lúc trẻ gặp áp lực từ gia đình muốn trẻ làm việc nhà. Áp lực càng tăng dần lên khi trẻ lập gia đình. Kết quả là, trẻ - khi ấy đã là một người lớn – vì áp lực mà phải làm những việc mình không thích, những việc trẻ cảm thấy mình không hạnh phúc thay vì tự nguyện/ mong muốn làm. “Áp lực sinh ra sự kháng cự” (“Pressure Creates Resistance”) là một định luật vật lý và được minh chứng trong hòan cảnh thực tế cuộc sống con người. Người ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi làm bất cứ điều gì trừ khi thực sự mong muốn làm điều đó từ trong tâm mình. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến là sự thất vọng, bất hòa, căng thẳng giữa các thành viên trong gia đình và bắt đầu đổ lỗi cho nhau… “Tôi phải làm nhiều hơn, cô ấy làm ít hơn”. Hàng loạt những điều như thế có thể diễn ra; tuy nhiên, chúng ta dừng lại ở đây và quay về chủ để chính. Vậy, nếu càc hoạt động thực hanh cuộc sống được bắt đầu ở thời điểm thích hợp và chúng ta giúp trẻ tự mình làm hơn là làm mọi thứ cho trẻ, sự độc lập sẽ trở thanh một đặc tính tồn tại suốt cuộc đời trẻ...... <br /> Maria Montessori",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/862560927841243136",
"published": "2018-07-08T05:09:10+00:00",
"source": {
"content": "Muốn con độc lập hay phụ thuộc tất cả thuộc về chame\n\n.....\n\nCho đến nay, nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển của trẻ. Những đặc điểm về tinh thần và nhân cách của trẻ được định hình, phát triển và được cố định vào giai đoạn từ 6 – 7 tuổi. Độc lập hay phụ thuộc trong cuộc sống hàng ngày là một đặc điểm về nhân cách/tính cách được hình thành từ trong những năm đầu đời. Hầu hết các bậc cha mẹ, người lớn trong gia đình và cả giáo viên đều không nhận ra được sự thật đó, do vậy họ thích làm mọi thứ cho trẻ. Ví dụ, trong xã hội chúng ta, nguyên nhân cốt lõi của việc những người đàn ông trở nên phụ thuộc là bởi họ nhận được những sự giúp đỡ không cần thiết trong thời thơ ấu. Các bậ mẹ và những người lớn trong gia đình trong mọi lúc có thể sẽ làm hầu hết các việc cho trẻ. Mọi việc được làm cho trẻ hơn là giúp trẻ tự làm chúng. Chúng ta không hiểu rằng mọi nỗ lực để trưởng thành chính là nỗ lực để độc lập. Trong suốt quá trình như thế, phụ thuộc vào người khác trở thành một đặc tính của trẻ. Sau này, trẻ trở nên không thể không phụ thuộc. Trong hầu hết các gia đình, chúng ta có những người đàán ông luôn yêu cầu mẹ, chị em gái và vợ mình làm mọi thứ cho mình:\n• “Mang thức ăn cho con”\n• “Mang nước cho con” \n• “Mang những cái đĩa này đi”\n• “Giày của con ở đâuu?”… \nMột người vợ diễn tả sự lo lắng của mình nói: “Anh ấy gọi tôi lấy nước ngay cả khi tôi lên lầu… Tôi tự hỏi liệu anh ấy có bị chết khát nếu tôi không ở đó?!”. Phản ứng của một người đàn ông bình thường có thể sẽ nghiêm trọng nếu như những mong muốn của họ không được thỏa m~n. Bởi vậy, với việc làm mọi điều cho trẻ trong thời thơ ấu, chúng ta không chỉ tạo ra một khó khăn/ vấn đề mà là lớp lớp những vấn đề chồng chất không chỉ cho chính bản thân trẻ mà còn cho những mối quan hệ tương lai trong cuộc sống của trẻ. Hãy nói đến những người phụ nữ trong mối quan hệ này. Trong mọi lúc có thể, những người mẹ và các thành viên khác trong gia đình tiếp tục làm mọi thứ cho trẻ. Tuy nhiên, khi trẻ lớn dần lên va thời điểm chính xác để tiếp thu những hoạt động thực tế của cuộc sống qua đi, đó cũng chính là lúc trẻ gặp áp lực từ gia đình muốn trẻ làm việc nhà. Áp lực càng tăng dần lên khi trẻ lập gia đình. Kết quả là, trẻ - khi ấy đã là một người lớn – vì áp lực mà phải làm những việc mình không thích, những việc trẻ cảm thấy mình không hạnh phúc thay vì tự nguyện/ mong muốn làm. “Áp lực sinh ra sự kháng cự” (“Pressure Creates Resistance”) là một định luật vật lý và được minh chứng trong hòan cảnh thực tế cuộc sống con người. Người ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi làm bất cứ điều gì trừ khi thực sự mong muốn làm điều đó từ trong tâm mình. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến là sự thất vọng, bất hòa, căng thẳng giữa các thành viên trong gia đình và bắt đầu đổ lỗi cho nhau… “Tôi phải làm nhiều hơn, cô ấy làm ít hơn”. Hàng loạt những điều như thế có thể diễn ra; tuy nhiên, chúng ta dừng lại ở đây và quay về chủ để chính. Vậy, nếu càc hoạt động thực hanh cuộc sống được bắt đầu ở thời điểm thích hợp và chúng ta giúp trẻ tự mình làm hơn là làm mọi thứ cho trẻ, sự độc lập sẽ trở thanh một đặc tính tồn tại suốt cuộc đời trẻ...... \n Maria Montessori",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862560927841243136/activity"
},
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862365181758132224",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "TRÌNH BÀY MỘT BÀI HỌC<br /><br /> Tính chính xác trong kỹ thuật của người hướng dẫn khi trình bày có giá trị rất lớn trong quá trình học của trẻ. Trong chương này chúng ta sẽ học cách trình bày một EPL với trẻ trước khi khuyến khích bé tự thực hành. Điều cơ bản đầu tiên là, trước khi người hướng dẫn cố gắng trình bày trước mặt trẻ, phải thực hành hoạt động nhiều lần nhất có thể để đảm bảo rằng khả năng xảy ra bất kì loại sai sót nào là ít nhất. Có hai cách trình bày: <br />• Trình bày cá nhân<br /> • Trình bày nhóm <br /><br />I. Trình bày cá nhân Chỉ trình bày với một em bé duy nhất.<br /> Sau đây là các điểm cần nhớ khi trình bày một bài học:<br />1. Giáo cụ cần được đặt trong tầm nhìn của đứa trẻ, nhờ đó trẻ sẽ cảm thấy hứng thú vàmuốn làm việc với nó. <br />2. Thứ tự sắp xếp đồ vật cũng rất quan trọng. Sử dụng quy luật “Một vật cho một vị trí và một vị trí cho một vật.” <br />3. Giáo cụ cần phải sẵn sàng trước khi trình bày. <br />4. Xin sự đồng ý của trẻ bằng cách nói: “Cô hướng dẫn con cách làm việc với nó nhé?” <br />5. Tóm tắt về giáo cụ cho trẻ hiểu, nói với trẻ các quy tắc cơ bản về cách sử dụng và chỉ cho trẻ chỗ cần đặt giáo cụ trở lại (sau khi dùng). <br />6. Mang giáo cụ đến nơi làm việc với sự giúp đỡ của trẻ. <br />7. Trình bày bài học một cách nh~ nhặn, vui vẻ và{ nhẹ nhàng. Trình bày một cách kiệm lời (nghĩa là chỉ sử dụng những từ ngữ cần thiết), tiết kiệm động tác (trẻ chỉ làm theo những cử chỉ cần thiết). Luôn ghi nhớ nguyên tắc “không nói khi đang cử động, không cử động khi đang nói”. <br />8. Đảm bảo rằng bài trình bày thật ngắn gọn và sinh động.<br />9. Sau khi trình bày, mời trẻ tiếp tục với hoạt động đó. <br />10. Rời khỏi trẻ. Để cho trẻ làm việc với giáo cụ bao lâu tùy thích. Không được ngắt quãng. <br />11. Giáo cụ cần được đặt lại vị trí đúng sau khi làm việc. <br />12. Mục tiêu của chúng ta là khi bài trình bày kết thúc, đứa trẻ có khả năng làm việc độc lập. Và mang trẻ tới một trạng thái tinh thần hứng thú tự nhiên tiếp tục bài học được khơi gợi. Chúng ta không nên hi vọng trẻ làm được bài học một cách hoàn hảo. Đôi khi trẻ cần nhiều hơn một lần trình bày.<br /><br /> II. Trình bày nhóm Hầu hết thời gian là dành cho bài trình bày cá nhân. Tuy nhiên, đôi khi trong lớp cũng thực hiện trình bày nhóm. Các quy luật tương tự như trên cũng nên được ghi nhớ khi trình bày theo nhóm, ngoài ra còn một số điểm khác nên lưu ý: <br />1. Chỉ khi tất cả học sinh trong nhóm đều có hứng thú được hướng dẫn và nghe lời thì mới tiếp tục trình bày. <br />2. Tuy vậy nếu bạn cảm thấy có ai đó trong số học sinh sẽ làm phiền cả lớp, đừng tiếp tục, tốt hơn hết là đưa ra các bài học cá nhân. <br />3. Sau khi trình bày, mỗi trẻ cần được trao một giáo cụ riêng để làm việc cá nhân. (Việc này trước hết khiến trẻ bận rộn , và tránh được sự thiếu tập trung và chán nản mà trẻ phải đối mặt trong khi chờ đợi đến lượt sử dụng giáo cụ.) Các điều cơ bản này không chỉ liên quan đến việc trình bày EPL, mà còn được áp dụng trong trình bày bất kì chủ đề bài học nào khác như: phát triển cảm quan, toán học, ngôn ngữ….<br />",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/862365181758132224",
"published": "2018-07-07T16:11:21+00:00",
"source": {
"content": "TRÌNH BÀY MỘT BÀI HỌC\n\n Tính chính xác trong kỹ thuật của người hướng dẫn khi trình bày có giá trị rất lớn trong quá trình học của trẻ. Trong chương này chúng ta sẽ học cách trình bày một EPL với trẻ trước khi khuyến khích bé tự thực hành. Điều cơ bản đầu tiên là, trước khi người hướng dẫn cố gắng trình bày trước mặt trẻ, phải thực hành hoạt động nhiều lần nhất có thể để đảm bảo rằng khả năng xảy ra bất kì loại sai sót nào là ít nhất. Có hai cách trình bày: \n• Trình bày cá nhân\n • Trình bày nhóm \n\nI. Trình bày cá nhân Chỉ trình bày với một em bé duy nhất.\n Sau đây là các điểm cần nhớ khi trình bày một bài học:\n1. Giáo cụ cần được đặt trong tầm nhìn của đứa trẻ, nhờ đó trẻ sẽ cảm thấy hứng thú vàmuốn làm việc với nó. \n2. Thứ tự sắp xếp đồ vật cũng rất quan trọng. Sử dụng quy luật “Một vật cho một vị trí và một vị trí cho một vật.” \n3. Giáo cụ cần phải sẵn sàng trước khi trình bày. \n4. Xin sự đồng ý của trẻ bằng cách nói: “Cô hướng dẫn con cách làm việc với nó nhé?” \n5. Tóm tắt về giáo cụ cho trẻ hiểu, nói với trẻ các quy tắc cơ bản về cách sử dụng và chỉ cho trẻ chỗ cần đặt giáo cụ trở lại (sau khi dùng). \n6. Mang giáo cụ đến nơi làm việc với sự giúp đỡ của trẻ. \n7. Trình bày bài học một cách nh~ nhặn, vui vẻ và{ nhẹ nhàng. Trình bày một cách kiệm lời (nghĩa là chỉ sử dụng những từ ngữ cần thiết), tiết kiệm động tác (trẻ chỉ làm theo những cử chỉ cần thiết). Luôn ghi nhớ nguyên tắc “không nói khi đang cử động, không cử động khi đang nói”. \n8. Đảm bảo rằng bài trình bày thật ngắn gọn và sinh động.\n9. Sau khi trình bày, mời trẻ tiếp tục với hoạt động đó. \n10. Rời khỏi trẻ. Để cho trẻ làm việc với giáo cụ bao lâu tùy thích. Không được ngắt quãng. \n11. Giáo cụ cần được đặt lại vị trí đúng sau khi làm việc. \n12. Mục tiêu của chúng ta là khi bài trình bày kết thúc, đứa trẻ có khả năng làm việc độc lập. Và mang trẻ tới một trạng thái tinh thần hứng thú tự nhiên tiếp tục bài học được khơi gợi. Chúng ta không nên hi vọng trẻ làm được bài học một cách hoàn hảo. Đôi khi trẻ cần nhiều hơn một lần trình bày.\n\n II. Trình bày nhóm Hầu hết thời gian là dành cho bài trình bày cá nhân. Tuy nhiên, đôi khi trong lớp cũng thực hiện trình bày nhóm. Các quy luật tương tự như trên cũng nên được ghi nhớ khi trình bày theo nhóm, ngoài ra còn một số điểm khác nên lưu ý: \n1. Chỉ khi tất cả học sinh trong nhóm đều có hứng thú được hướng dẫn và nghe lời thì mới tiếp tục trình bày. \n2. Tuy vậy nếu bạn cảm thấy có ai đó trong số học sinh sẽ làm phiền cả lớp, đừng tiếp tục, tốt hơn hết là đưa ra các bài học cá nhân. \n3. Sau khi trình bày, mỗi trẻ cần được trao một giáo cụ riêng để làm việc cá nhân. (Việc này trước hết khiến trẻ bận rộn , và tránh được sự thiếu tập trung và chán nản mà trẻ phải đối mặt trong khi chờ đợi đến lượt sử dụng giáo cụ.) Các điều cơ bản này không chỉ liên quan đến việc trình bày EPL, mà còn được áp dụng trong trình bày bất kì chủ đề bài học nào khác như: phát triển cảm quan, toán học, ngôn ngữ….\n",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862365181758132224/activity"
},
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862336587799449600",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH CUỘC SỐNG <br /><br />Nếu giáo dục luôn chỉ được quan niệm đơn thuần là việc truyền đạt kiến thức, sẽ rất ít hi vọng để vận dụng những kiến thức ấy làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Sử dụng những kiến thức được truyền đạt ấy để làm gì nếu như thông qua đó mỗi cá nhân không đạt được sự phát triển? <br /> <br /> Dr. Maria Montessori. <br /><br />I. Hoạt động thực hành cuộc sống là gì? (EPL) EPL là tập hợp tất cả những hoạt động đơn giản của cuộc sống hàng ngày, thường được làm bởi người lớn. Đó là những hoạt động thật và được làm trong những điều kiện có thật. Người lớn làm những hoạt động này để duy trì và khôi phục điều kiện sống thích hợp. Trong ngôi nhà trẻ thơ Montessori, EPL không bị giới hạn. Chúng ta có thể thực hành bất kì hoạt động nào mà chúng ta làm trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, trẻ có thể thực hiện các công việc phức tạp hàng ngày. Chúng ta đi theo 1 cách tiếp cận có hệ thống trong đó mỗi trẻ được cung cấp cơ hội để làm một chuỗi các hoạt động từ đơn giản đến phức tạp. Theo đó trẻ tăng dần càc hoạt động với cấp độ cao hơn, và trở nên có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp hơn. Giáo lý và thực hanh tôn giáo cũng có thể được tích hợp trong EPL như: cách cầu nguyện, cách chào đón, cách uống nước, cách gõ cửa… <br /><br />II. Tại sao trẻ nên được thực hiện các hoạt động thực hành cuộc sống <br />Trẻ nên được giới thiệu đa dạng các EPL trong những năm đầu đời cả ở môi trường gia đình và môi trường được chuẩn bị. Có 10 lý do được đưa ra sau đây và chúng ta sẽ cùng thảo luận: <br /><br />- Để độc lập. <br />Cho đến nay, nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển của trẻ. Những đặc điểm về tinh thần và nhân cách của trẻ được định hình, phát triển và được cố định vào giai đoạn từ 6 – 7 tuổi. Độc lập hay phụ thuộc trong cuộc sống hàng ngày là một đặc điểm về nhân cách/tính cách được hình thành từ trong những năm đầu đời. Hầu hết các bậc cha mẹ, người lớn trong gia đình và cả giáo viên đều không nhận ra được sự thật đó, do vậy họ thích làm mọi thứ cho trẻ. Ví dụ, trong xã hội chúng ta, nguyên nhân cốt lõi của việc những người đàn ông trở nên phụ thuộc là bởi họ nhận được những sự giúp đỡ không cần thiết trong thời thơ ấu. Các bậ mẹ và những người lớn trong gia đình trong mọi lúc có thể sẽ làm hầu hết các việc cho trẻ. Mọi việc được làm cho trẻ hơn là giúp trẻ tự làm chúng. Chúng ta không hiểu rằng mọi nỗ lực để trưởng thành chính là nỗ lực để độc lập. Trong suốt quá trình như thế, phụ thuộc vào người khác trở thành một đặc tính của trẻ. Sau này, trẻ trở nên không thể không phụ thuộc. Trong hầu hết các gia đình, chúng ta có những người đàán ông luôn yêu cầu mẹ, chị em gái và vợ mình làm mọi thứ cho mình:<br />• “Mang thức ăn cho con”<br />• “Mang nước cho con” <br />• “Mang những cái đĩa này đi”<br />• “Giày của con ở đâuu?”… <br />Một người vợ diễn tả sự lo lắng của mình nói: “Anh ấy gọi tôi lấy nước ngay cả khi tôi lên lầu… Tôi tự hỏi liệu anh ấy có bị chết khát nếu tôi không ở đó?!”. Phản ứng của một người đàn ông bình thường có thể sẽ nghiêm trọng nếu như những mong muốn của họ không được thỏa m~n. Bởi vậy, với việc làm mọi điều cho trẻ trong thời thơ ấu, chúng ta không chỉ tạo ra một khó khăn/ vấn đề mà là lớp lớp những vấn đề chồng chất không chỉ cho chính bản thân trẻ mà còn cho những mối quan hệ tương lai trong cuộc sống của trẻ. H~y nói đến những người phụ nữ trong mối quan hệ này. Trong mọi lúc có thể, những người mẹ và các thành viên khác trong gia đình tiếp tục làm mọi thứ cho trẻ. Tuy nhiên, khi trẻ lớn dần lên va thời điểm chính xác để tiếp thu những hoạt động thực tế của cuộc sống qua đi, đó cũng chính là lúc trẻ gặp áp lực từ gia đình muốn trẻ làm việc nhà. Áp lực càng tăng dần lên khi trẻ lập gia đình. Kết quả là, trẻ - khi ấy đã là một người lớn – vì áp lực mà phải làm những việc mình không thích, những việc trẻ cảm thấy mình không hạnh phúc thay vì tự nguyện/ mong muốn làm. “Áp lực sinh ra sự kháng cự” (“Pressure Creates Resistance”) là một định luật vật lý và được minh chứng trong hòan cảnh thực tế cuộc sống con người. Người ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi làm bất cứ điều gì trừ khi thực sự mong muốn làm điều đó từ trong tâm mình. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến là sự thất vọng, bất hòa, căng thẳng giữa các thành viên trong gia đình và bắt đầu đổ lỗi cho nhau… “Tôi phải làm nhiều hơn, cô ấy làm ít hơn”. Hàng loạt những điều như thế có thể diễn ra; tuy nhiên, chúng ta dừng lại ở đây và quay về chủ để chính. Vậy, nếu càc hoạt động thực hanh cuộc sống được bắt đầu ở thời điểm thích hợp và chúng ta giúp trẻ tự mình làm hơn là làm mọi thứ cho trẻ, sự độc lập sẽ trở thanh một đặc tính tồn tại suốt cuộc đời trẻ. Trẻ không chỉ luôn tự làm mọi công việc hàng ngay cho mình và giúp đỡ người khàc ma còn cảm thấy hạnh phúc khi làm điều đó. - Để phát triển tình yêu với công việc. EPL còn giúp trẻ hiểu về môi trường xung quanh mình và hiểu cách làm việc. Thông qua EPL, tình yêu với công việc sẽ được nâng cao trong trẻ, và trẻ yêu thích các hoạt động gắn liền với việc phục vụ, bảo vệ bản thân mình cũng như môi trường có giá trị cho cuộc sống. Tất cả các công việc này, thực tế, giúp trẻ tôn trọng bản thân và cảm thấy được coi trọng.<br /><br />-. Để hạnh phúc, thỏa m~n nội tại và tự tôn trọng bản thân.<br />Khi thói quen làm việc được hình thành, cần giúp trẻ nhận ra rằng bên cạnh việc giúp đỡ chính mình trẻ phải giúp ích cho người khác. Người lớn lựa chọn nghề nghiệp/ lĩnh vực, loại hình công việc mà mình cảm thấy hứng thú. Các hoạt động này giúp họ tôn trọng bản thân, vui thích góp phần xay dựng một xã hội tốt đẹp hơn như một người công dân tốt. Hạnh phúc và sự tự hài lòng chỉ có thể đạt được khi hoạt động được làm đúng cách. Tương tự như vậy, trẻ nhỏ cũng nên được cho phép tự chọn những công việc mà trẻ cảm thấy hứng thú. Tất cả các hoạt động được đưa vào hướng dẫn/ giảng dạy phải được thực hiện hết sức nghiêm túc/ chuẩn xác. Trong giai đoạn từ 0 – 3 tuổi trẻ yêu thích việc học và làm việc nhà. Giai đoạn này đến và diễn ra rất nhanh. Nếu nắm bắt chuẩn xác được thời kì này, đồng thời các hoạt động được hướng dẫn nghiêm túc, trẻ sẽ được chuẩn bị hành trang cho cuộc sống để gìn giữ ngôi nhà của mình, những điều mà cuộc sống hiện đại yêu cầu rất nhiều sự khéo léo. Tất cả các công việc này đòi hỏi trí thông minh và nhiều kỹ năng thuần thục. Khi chúng ta hướng dẫn trẻ làm các hoạt động này, chúng ta nên thể hiện rõ sự hào phóng trong việc giúp đỡ trẻ, đồng thời khuyến khích/ tán dương trẻ, bởi trong giai đoạn này trẻ làm việc thực sự chăm chỉ, hăng say và đam mê. Chúng ta nên cho trẻ thấy rõ sự thích thú và vui mừng của chúng ta để trẻ cảm nhận được sự quan trọng. Ví dụ như: “Thật vui vì con đ~ giúp cô hôm nay”, hay, “Ồ, nhìn xem, cái giường nhỏ nhắn mới gọn gàng làm sao…con làm tốt lắm!”. Những trẻ được gửi đến trường Montessori là những trẻ thực sự được chuẩn bị để trường thành. Cung cấp cho trẻ cơ hội để học tập nhằm giúp trẻ thu nhận những kĩ năng cơ bản để chuẩn bị cho 1 cuộc sống đầy trách nhiệm sau này là điều hết sức cần thiết. Một cách tự nhiên/ bản năng, trẻ có những thôi thúc để đạt được những kĩ năng này. Một đứa trẻ có được cơ hội giúp mẹ trong nhà bếp sẽ học các kĩ năng từ người mẹ. Trẻ phát triển trí thông minh và đạt được cảm giác hài lòng bởi trẻ có thể thấy rằng mình được tham gia vào một công việc quan trọng và có giá trị của người lớn. Trẻ thấy mãn nguyện và thu nhận được kiến thức từ việc mình làm. Điều này đưa trẻ đến sự độc lập. Nếu chúng ta ngăn trẻ làm việc, đồng nghĩa với việc chúng ta ngăn trẻ phát triển. Khi chúng ta nói với trẻ những câu như “Đi ra chỗ khác và chơi đi” cũng có nghĩa là : “Con thật vô dụng và không làm được việc gì cả. Cầm lấy đồ chơi và chơi đi bởi con chỉ phù hợp với những món đồ giả vờ không có giá trị sử dụng. Những món đồ thật chỉ d{nh cho mẹ thôi!” <br /><br />- Để xây dựng một thế giới là nơi có tính tổ chức và sự ngăn nắp tốt hơn. <br />Rất nhiều người trong chúng ta không đưa vật trở về vị trí cũ sau khi sử dụng. Một nhiệm vụ quan trọng của EPL là để giải quyết vấn đề này. Trong trường Montessori chúng ta tuân thủ nguyên tắc: “Mọi vật đều có vị trí của nó”. Từng vật dụng sẽ luôn được tìm thấy tại đúng vị trí trong lớp học Montessori. Bằng cách lờ đi việc thực hành nguyên tắc quan trọng này ở độ tuổi thích hợp, chúng ta tự làm phức tạp môi trường và cuộc sống của chính chúng ta. Ví dụ: <br />• Chúng ta bỏ đồ đ~ qua sử dụng lại trên bàn để người khác phải bỏ chúng đi <br />• Thay vì treo khăn tắm lên dây phơi, chúng ta vắt khăn lên lưng ghế.<br />• Khi chúng ta cần đồ thì nó biến mất bởi chúng ta không đặt lại nó vào đúng nơi quy định. Nguyên tắc này có thể đạt được nếu ở đúng độ tuổi chúng ta thực hành việc cất mọi thứ tại đúng nơi quy định ở nhà hoặc ở trường, và dọn dẹp mọi thứ lộn xộn mà chúng ta bày ra trong quá trình làm việc. Những chiếc giá để đồ và những chiếc tách/cốc phù hợp với kích cỡ của trẻ phải được cung cấp cho trẻ ở nhà cũng như ở trường, qua đó trẻ trở nên độc lập. Tuy nhiên, nếu trẻ cảm thấy không thích cất đồ hoặc không biết làm thế nào để cất đồ lại đúng vị trí, người lớn nên giúp trẻ bằng cách nói : “Hôm nay mẹ có thể giúp con cất đồ này đi” hoặc “Ai có thể giúp Noor cất đồ này đi nào”…Bằng cách này, trẻ cũng sẽ học được cách giúp đỡ người khác và trẻ từ là người nhận sự giúp đỡ sẽ giúp đỡ người khác. Khi cung cấp công việc cho trẻ, chỉ đưa ra những thứ hoàn chỉnh và có giá trị. Một đống hỗn độn, ngổn ngang không nên giữ trong nhà bởi rất ít người có thể sắp xếp có tổ chức một số lượng lớn các vật dụng. Không nên cho trẻ quá nhiều sự lựa chọn. Cũng không nên cho trẻ quá nhiều những đồ chơi rẻ tiền vô giá trị - những thứ không giúp trẻ trong quá trình học tập và phát triển trí lực.<br /><br />- Để học cách cho và nhận sự giúp đỡ một cách lịch thiệp. <br />Rất nhiều người trong chúng ta không biết cách đưa ra lời yêu cầu được giúp đỡ một cách lịch sự. EPL thực sự giúp ích trong việc học cách sẵn lòng/ tự nguyện cho và nhận sự giúp đỡ từ những trẻ lớn và trẻ nhỏ ở trường cũng như ở nhà. Những câu mệnh lệnh thường gặp như “Đi dọn phòng của con đi” nên được thay thế bằng “Chúng ta h~y cùng dọn dẹp sạch sẽ phòng khách ngày hôm nay. Ngày mai sẽ đến phòng bếp và ngày kia sẽ là phòng con nhé”. EPL giúp trẻ học cách làm mọi việc chuẩn xác. Đồng thời giúp hình thành nên thói quen làm việc tốt giữa những đứa trẻ, giúp đỡ nhau một cách nhẹ nhàng, thú vị và sau này khi lớn lên trẻ sẽ giúp chia sẻ những công việc trong gia dình, “trẻ biết rằng mọi người đều phải tham gia làm việc nhà” <br />- Để truyền thói quen làm việc tốt cho thế hệ sau <br />Khi trẻ còn nhỏ, trẻ học rất nhiều từ việc bắt chước người lớn. Nếu trong giai đoạn này, người lớn phàn nan về công việc, khi lớn lên trẻ cũng sẽ không muốn làm việc. Cách duy nhất để không truyền thái độ tiêu cực từ thế hệ này sang thế hệ khác là để trẻ được lớn lên trong một môi trường làm mẫu hoàn hảo với những thói quen làm việc tốt/ tích cực. <br /><br />- Để vận động được hoàn hảo/ làm tinh tế sự vận động <br />Tự nhiên muốn trẻ liên tục hoạt động. Nhu cầu vận động là thiết yếu trong thời thơ ấu và sẽ giảm dần khi lớn lên. Vận động giúp tạo ra phương tiện/công cụ để thúc đẩy ý chí – thúc đẩy sự phát triển thành thục của trí lực. Bởi vậy, càng được hoạt động theo ý muốn/ thôi thúc nội tại của mình, trẻ càng phát triển. Cuộn thảm, đánh bóng giày, cọ sàn nhà hay bồn rửa, sắp xếp lại bàn, đóng và mở hộp, cửa đi và cửa sổ, sắp xếp phòng, ….là các hoạt động cần sự phối hợp, tham gia của toàn bộ cơ thể, hệ cơ, các cử động tinh tế. Thông qua thói quen làm việc tốt, trẻ học cách di chuyển tay và cánh tay, tăng cường sự dẻo dai của các cơ trên cơ thể tốt hơn rất nhiều so với việc tập các bài tập thể dục. Tuy nhiên, càc hoạt động thực hanh cuộc sống không được coi như các động tác thể dục đơn giản, mà đó là “công việc”. Sự hứng khởi và thích thú của trẻ trong quá trình hoạt động làm cho công việc trở nên tươi mới và không mệt mỏi. Đó là các hoạt động tự nhiên, con người nên có mục tiêu khi hoạt động. Hệ cơ là công cụ phục vụ/ biểu đạt cho trí lực và bởi vậy bảo toàn sự thống nhất chức năng của chúng với nhân cách của con người. Trẻ cũng học cách di chuyển/ hoạt động lịch sự và tránh các hoạt động không cần thiết. Càng kiểm soát được hoạt động của mình, trẻ càng được trải nghiệm tự do, bởi người lớn sẽ không còn ngăn cấm trẻ hoạt động vì sợ trẻ làm tổn hại đến bản thân trẻ hay môi trường. <br /><br />- Để đạt được sự bình thường hóa <br />Như đ~ đề cập đến trong Module 1 (Chương Các thời kì nhạy cảm), trong giai đoạn từ 0- 7 tuổi mọi trẻ đều trải qua thời kì nhạy cảm – thời kì tồn tại trong trẻ những thôi thúc mạnh mẽ nhất định để có những trải nghiệm cần thiết cho sự phát triển. Tuy nhiên, nếu những thôi thúc này bị kìm nén bởi môi trường hay bởi người lớn, điều đó cũng đồng nghĩa với việc trẻ không có cơ hội được trải nghiệm thực sự, trẻ có xu hướng lệch lạc. Thời kì nhạy cảm về EPL cũng bắt đầu và kết thúc trong giai đoạn 0-7 tuổi, và đòi hỏi trẻ làm các hoạt động cần thiết. Tất cả chúng ta đều thấy được niềm vui thích của trẻ khi tham gia vào các hoạt động thường ngày như cọ, rửa, nấu ăn, cắt…Thỏa mãn những thôi thúc nội tại giúp trẻ đạt được sự bình thường hóa – đó cũng là mục tiêu tinh thần cốt lõi của EPL.<br /><br />- Để phát triển tình thương lớn <br />Bằng cách thực hiện các hoạt động chăm sóc bản thân, chăm sóc môi trường, chăm sóc các thực thể sống và thực hành lịch sự, nh~ nhặn, trẻ sẽ phát triển tình yêu với toàn cầu, với muôn loài. Trẻ có xu hướng hòa bình và là một người có trách nhiệm – trách nhiệm với mọi thứ, như thể SỰ QUAN TÂM trở thành một phần của bản chất con người trẻ.<br /><br />- Để tránh sự rối loạn nhân cÁch<br />Những trẻ là người hướng nội và thiếu tự tin thực ra là bị người lớn từ chối, cự tuyệt trong quá trình học tập của mình. Sau này, khi lớn lên trẻ học cách nấu nướng và sử dụng các loại máy móc thiết bị khác, tuy nhiên sẽ không đạt được sự hoàn hảo cũng như không cảm nhận được những thôi thúc tự nhiên dẫn tới niềm hạnh phúc khi trải nghiêm EPL, là bởi trẻ không được cung cấp cơ hội để thực hành tại đúng thời điểm/ đúng độ tuổi. Bác sĩ Montessori đ~ khẳng định “các thời kì nhạy cảm” là giai đoạn đỉnh cao mà tự nhiên cho phép con người học mọi thứ một cách tốt nhất. Thời kì này là hữu hạn. Do đó, chúng ta phải nhận biết được những thôi thúc nội tại trong trẻ bằng cách quan sát trẻ - quan sát xem hoạt động nào là hoạt động trẻ thấy hứng thú nhất. Nếu trẻ lặp đi lặp lại một hoạt động…điều đó có nghĩa thời kì nhạy cảm về hoạt động đó đang diễn ra. Trong thời kì này phải cung cấp tối đa cho trẻ những cơ hội để trải nghiệm nhằm giúp trẻ đạt được sự phát triển và học tập hiệu quả nhất. <br />III. Nhóm các hoạt động thực hành cuộc sống<br />Bao gồm 4 nhóm:<br />- Hoạt động cơ bản<br />• Hoạt động cơ bản sơ cấp: Bao gồm các chuyển động/ cử động rất đơn giản như cách cầm nắm, đặt đồ vật. Các hoạt động này được hoàn thành trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ: cách giữ, mang và đặt bình, cốc, khay, thìa… <br />• Hoạt động cơ bản: Nâng cao và phức tạp hơn một chút so với hoạt động cơ bản sơ cấp, tuy nhiên cũng được hoàn thành trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ: Cuộn và trải chiếu, Gấp và mở chiếu, mở và đóng nắp chai, đổ gạo từ bình này sang bình khác. <br />• Hoạt động cơ bản nâng cao: Logic và phức tạp hơn một chút so với hoạt động cơ bản. Ví dụ: cắt theo đường thẳng, di chuyển hạt đậu bằng thìa, sử dụng ống nhỏ giọt. <br />- Chăm sóc bản thân: Giúp trẻ chăm sóc bản thân, đạt được sự tự tin và chỉn chu.Ví dụ: Chải đầu, đánh răng, mặc đồ…<br />- Văn hóa ứng xử: Trẻ học cách lịch sự, sử dụng các cách thức cơ bản, và cách sống trong x~ hội. Ví dụ: Cách mang ghế, cách giữ trật tự, cách nói cảm ơn, xin lỗi…<br />- Chăm sóc môi trường: Thực hành chăm sóc cả môi trường bên trong và bên ngoài lớp học. Cách giữ vệ sinh sạch sẽ, khôi phục và duy trì điều kiện sống thích hợp. Ví dụ đối với chăm sóc môi trường bên trong: đánh bóng thau, rửa bát, phủi bụi, cắm hoa… Ví dụ đối với chăm sóc môi trường bên ngoài: nhặt lá khô, tưới cây.<br /><br />",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/862336587799449600",
"published": "2018-07-07T14:17:43+00:00",
"source": {
"content": "CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH CUỘC SỐNG \n\nNếu giáo dục luôn chỉ được quan niệm đơn thuần là việc truyền đạt kiến thức, sẽ rất ít hi vọng để vận dụng những kiến thức ấy làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Sử dụng những kiến thức được truyền đạt ấy để làm gì nếu như thông qua đó mỗi cá nhân không đạt được sự phát triển? \n \n Dr. Maria Montessori. \n\nI. Hoạt động thực hành cuộc sống là gì? (EPL) EPL là tập hợp tất cả những hoạt động đơn giản của cuộc sống hàng ngày, thường được làm bởi người lớn. Đó là những hoạt động thật và được làm trong những điều kiện có thật. Người lớn làm những hoạt động này để duy trì và khôi phục điều kiện sống thích hợp. Trong ngôi nhà trẻ thơ Montessori, EPL không bị giới hạn. Chúng ta có thể thực hành bất kì hoạt động nào mà chúng ta làm trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, trẻ có thể thực hiện các công việc phức tạp hàng ngày. Chúng ta đi theo 1 cách tiếp cận có hệ thống trong đó mỗi trẻ được cung cấp cơ hội để làm một chuỗi các hoạt động từ đơn giản đến phức tạp. Theo đó trẻ tăng dần càc hoạt động với cấp độ cao hơn, và trở nên có khả năng thực hiện các nhiệm vụ phức tạp hơn. Giáo lý và thực hanh tôn giáo cũng có thể được tích hợp trong EPL như: cách cầu nguyện, cách chào đón, cách uống nước, cách gõ cửa… \n\nII. Tại sao trẻ nên được thực hiện các hoạt động thực hành cuộc sống \nTrẻ nên được giới thiệu đa dạng các EPL trong những năm đầu đời cả ở môi trường gia đình và môi trường được chuẩn bị. Có 10 lý do được đưa ra sau đây và chúng ta sẽ cùng thảo luận: \n\n- Để độc lập. \nCho đến nay, nghiên cứu đã chỉ ra rằng giai đoạn từ 0 đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển của trẻ. Những đặc điểm về tinh thần và nhân cách của trẻ được định hình, phát triển và được cố định vào giai đoạn từ 6 – 7 tuổi. Độc lập hay phụ thuộc trong cuộc sống hàng ngày là một đặc điểm về nhân cách/tính cách được hình thành từ trong những năm đầu đời. Hầu hết các bậc cha mẹ, người lớn trong gia đình và cả giáo viên đều không nhận ra được sự thật đó, do vậy họ thích làm mọi thứ cho trẻ. Ví dụ, trong xã hội chúng ta, nguyên nhân cốt lõi của việc những người đàn ông trở nên phụ thuộc là bởi họ nhận được những sự giúp đỡ không cần thiết trong thời thơ ấu. Các bậ mẹ và những người lớn trong gia đình trong mọi lúc có thể sẽ làm hầu hết các việc cho trẻ. Mọi việc được làm cho trẻ hơn là giúp trẻ tự làm chúng. Chúng ta không hiểu rằng mọi nỗ lực để trưởng thành chính là nỗ lực để độc lập. Trong suốt quá trình như thế, phụ thuộc vào người khác trở thành một đặc tính của trẻ. Sau này, trẻ trở nên không thể không phụ thuộc. Trong hầu hết các gia đình, chúng ta có những người đàán ông luôn yêu cầu mẹ, chị em gái và vợ mình làm mọi thứ cho mình:\n• “Mang thức ăn cho con”\n• “Mang nước cho con” \n• “Mang những cái đĩa này đi”\n• “Giày của con ở đâuu?”… \nMột người vợ diễn tả sự lo lắng của mình nói: “Anh ấy gọi tôi lấy nước ngay cả khi tôi lên lầu… Tôi tự hỏi liệu anh ấy có bị chết khát nếu tôi không ở đó?!”. Phản ứng của một người đàn ông bình thường có thể sẽ nghiêm trọng nếu như những mong muốn của họ không được thỏa m~n. Bởi vậy, với việc làm mọi điều cho trẻ trong thời thơ ấu, chúng ta không chỉ tạo ra một khó khăn/ vấn đề mà là lớp lớp những vấn đề chồng chất không chỉ cho chính bản thân trẻ mà còn cho những mối quan hệ tương lai trong cuộc sống của trẻ. H~y nói đến những người phụ nữ trong mối quan hệ này. Trong mọi lúc có thể, những người mẹ và các thành viên khác trong gia đình tiếp tục làm mọi thứ cho trẻ. Tuy nhiên, khi trẻ lớn dần lên va thời điểm chính xác để tiếp thu những hoạt động thực tế của cuộc sống qua đi, đó cũng chính là lúc trẻ gặp áp lực từ gia đình muốn trẻ làm việc nhà. Áp lực càng tăng dần lên khi trẻ lập gia đình. Kết quả là, trẻ - khi ấy đã là một người lớn – vì áp lực mà phải làm những việc mình không thích, những việc trẻ cảm thấy mình không hạnh phúc thay vì tự nguyện/ mong muốn làm. “Áp lực sinh ra sự kháng cự” (“Pressure Creates Resistance”) là một định luật vật lý và được minh chứng trong hòan cảnh thực tế cuộc sống con người. Người ta không thể cảm thấy hạnh phúc khi làm bất cứ điều gì trừ khi thực sự mong muốn làm điều đó từ trong tâm mình. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến là sự thất vọng, bất hòa, căng thẳng giữa các thành viên trong gia đình và bắt đầu đổ lỗi cho nhau… “Tôi phải làm nhiều hơn, cô ấy làm ít hơn”. Hàng loạt những điều như thế có thể diễn ra; tuy nhiên, chúng ta dừng lại ở đây và quay về chủ để chính. Vậy, nếu càc hoạt động thực hanh cuộc sống được bắt đầu ở thời điểm thích hợp và chúng ta giúp trẻ tự mình làm hơn là làm mọi thứ cho trẻ, sự độc lập sẽ trở thanh một đặc tính tồn tại suốt cuộc đời trẻ. Trẻ không chỉ luôn tự làm mọi công việc hàng ngay cho mình và giúp đỡ người khàc ma còn cảm thấy hạnh phúc khi làm điều đó. - Để phát triển tình yêu với công việc. EPL còn giúp trẻ hiểu về môi trường xung quanh mình và hiểu cách làm việc. Thông qua EPL, tình yêu với công việc sẽ được nâng cao trong trẻ, và trẻ yêu thích các hoạt động gắn liền với việc phục vụ, bảo vệ bản thân mình cũng như môi trường có giá trị cho cuộc sống. Tất cả các công việc này, thực tế, giúp trẻ tôn trọng bản thân và cảm thấy được coi trọng.\n\n-. Để hạnh phúc, thỏa m~n nội tại và tự tôn trọng bản thân.\nKhi thói quen làm việc được hình thành, cần giúp trẻ nhận ra rằng bên cạnh việc giúp đỡ chính mình trẻ phải giúp ích cho người khác. Người lớn lựa chọn nghề nghiệp/ lĩnh vực, loại hình công việc mà mình cảm thấy hứng thú. Các hoạt động này giúp họ tôn trọng bản thân, vui thích góp phần xay dựng một xã hội tốt đẹp hơn như một người công dân tốt. Hạnh phúc và sự tự hài lòng chỉ có thể đạt được khi hoạt động được làm đúng cách. Tương tự như vậy, trẻ nhỏ cũng nên được cho phép tự chọn những công việc mà trẻ cảm thấy hứng thú. Tất cả các hoạt động được đưa vào hướng dẫn/ giảng dạy phải được thực hiện hết sức nghiêm túc/ chuẩn xác. Trong giai đoạn từ 0 – 3 tuổi trẻ yêu thích việc học và làm việc nhà. Giai đoạn này đến và diễn ra rất nhanh. Nếu nắm bắt chuẩn xác được thời kì này, đồng thời các hoạt động được hướng dẫn nghiêm túc, trẻ sẽ được chuẩn bị hành trang cho cuộc sống để gìn giữ ngôi nhà của mình, những điều mà cuộc sống hiện đại yêu cầu rất nhiều sự khéo léo. Tất cả các công việc này đòi hỏi trí thông minh và nhiều kỹ năng thuần thục. Khi chúng ta hướng dẫn trẻ làm các hoạt động này, chúng ta nên thể hiện rõ sự hào phóng trong việc giúp đỡ trẻ, đồng thời khuyến khích/ tán dương trẻ, bởi trong giai đoạn này trẻ làm việc thực sự chăm chỉ, hăng say và đam mê. Chúng ta nên cho trẻ thấy rõ sự thích thú và vui mừng của chúng ta để trẻ cảm nhận được sự quan trọng. Ví dụ như: “Thật vui vì con đ~ giúp cô hôm nay”, hay, “Ồ, nhìn xem, cái giường nhỏ nhắn mới gọn gàng làm sao…con làm tốt lắm!”. Những trẻ được gửi đến trường Montessori là những trẻ thực sự được chuẩn bị để trường thành. Cung cấp cho trẻ cơ hội để học tập nhằm giúp trẻ thu nhận những kĩ năng cơ bản để chuẩn bị cho 1 cuộc sống đầy trách nhiệm sau này là điều hết sức cần thiết. Một cách tự nhiên/ bản năng, trẻ có những thôi thúc để đạt được những kĩ năng này. Một đứa trẻ có được cơ hội giúp mẹ trong nhà bếp sẽ học các kĩ năng từ người mẹ. Trẻ phát triển trí thông minh và đạt được cảm giác hài lòng bởi trẻ có thể thấy rằng mình được tham gia vào một công việc quan trọng và có giá trị của người lớn. Trẻ thấy mãn nguyện và thu nhận được kiến thức từ việc mình làm. Điều này đưa trẻ đến sự độc lập. Nếu chúng ta ngăn trẻ làm việc, đồng nghĩa với việc chúng ta ngăn trẻ phát triển. Khi chúng ta nói với trẻ những câu như “Đi ra chỗ khác và chơi đi” cũng có nghĩa là : “Con thật vô dụng và không làm được việc gì cả. Cầm lấy đồ chơi và chơi đi bởi con chỉ phù hợp với những món đồ giả vờ không có giá trị sử dụng. Những món đồ thật chỉ d{nh cho mẹ thôi!” \n\n- Để xây dựng một thế giới là nơi có tính tổ chức và sự ngăn nắp tốt hơn. \nRất nhiều người trong chúng ta không đưa vật trở về vị trí cũ sau khi sử dụng. Một nhiệm vụ quan trọng của EPL là để giải quyết vấn đề này. Trong trường Montessori chúng ta tuân thủ nguyên tắc: “Mọi vật đều có vị trí của nó”. Từng vật dụng sẽ luôn được tìm thấy tại đúng vị trí trong lớp học Montessori. Bằng cách lờ đi việc thực hành nguyên tắc quan trọng này ở độ tuổi thích hợp, chúng ta tự làm phức tạp môi trường và cuộc sống của chính chúng ta. Ví dụ: \n• Chúng ta bỏ đồ đ~ qua sử dụng lại trên bàn để người khác phải bỏ chúng đi \n• Thay vì treo khăn tắm lên dây phơi, chúng ta vắt khăn lên lưng ghế.\n• Khi chúng ta cần đồ thì nó biến mất bởi chúng ta không đặt lại nó vào đúng nơi quy định. Nguyên tắc này có thể đạt được nếu ở đúng độ tuổi chúng ta thực hành việc cất mọi thứ tại đúng nơi quy định ở nhà hoặc ở trường, và dọn dẹp mọi thứ lộn xộn mà chúng ta bày ra trong quá trình làm việc. Những chiếc giá để đồ và những chiếc tách/cốc phù hợp với kích cỡ của trẻ phải được cung cấp cho trẻ ở nhà cũng như ở trường, qua đó trẻ trở nên độc lập. Tuy nhiên, nếu trẻ cảm thấy không thích cất đồ hoặc không biết làm thế nào để cất đồ lại đúng vị trí, người lớn nên giúp trẻ bằng cách nói : “Hôm nay mẹ có thể giúp con cất đồ này đi” hoặc “Ai có thể giúp Noor cất đồ này đi nào”…Bằng cách này, trẻ cũng sẽ học được cách giúp đỡ người khác và trẻ từ là người nhận sự giúp đỡ sẽ giúp đỡ người khác. Khi cung cấp công việc cho trẻ, chỉ đưa ra những thứ hoàn chỉnh và có giá trị. Một đống hỗn độn, ngổn ngang không nên giữ trong nhà bởi rất ít người có thể sắp xếp có tổ chức một số lượng lớn các vật dụng. Không nên cho trẻ quá nhiều sự lựa chọn. Cũng không nên cho trẻ quá nhiều những đồ chơi rẻ tiền vô giá trị - những thứ không giúp trẻ trong quá trình học tập và phát triển trí lực.\n\n- Để học cách cho và nhận sự giúp đỡ một cách lịch thiệp. \nRất nhiều người trong chúng ta không biết cách đưa ra lời yêu cầu được giúp đỡ một cách lịch sự. EPL thực sự giúp ích trong việc học cách sẵn lòng/ tự nguyện cho và nhận sự giúp đỡ từ những trẻ lớn và trẻ nhỏ ở trường cũng như ở nhà. Những câu mệnh lệnh thường gặp như “Đi dọn phòng của con đi” nên được thay thế bằng “Chúng ta h~y cùng dọn dẹp sạch sẽ phòng khách ngày hôm nay. Ngày mai sẽ đến phòng bếp và ngày kia sẽ là phòng con nhé”. EPL giúp trẻ học cách làm mọi việc chuẩn xác. Đồng thời giúp hình thành nên thói quen làm việc tốt giữa những đứa trẻ, giúp đỡ nhau một cách nhẹ nhàng, thú vị và sau này khi lớn lên trẻ sẽ giúp chia sẻ những công việc trong gia dình, “trẻ biết rằng mọi người đều phải tham gia làm việc nhà” \n- Để truyền thói quen làm việc tốt cho thế hệ sau \nKhi trẻ còn nhỏ, trẻ học rất nhiều từ việc bắt chước người lớn. Nếu trong giai đoạn này, người lớn phàn nan về công việc, khi lớn lên trẻ cũng sẽ không muốn làm việc. Cách duy nhất để không truyền thái độ tiêu cực từ thế hệ này sang thế hệ khác là để trẻ được lớn lên trong một môi trường làm mẫu hoàn hảo với những thói quen làm việc tốt/ tích cực. \n\n- Để vận động được hoàn hảo/ làm tinh tế sự vận động \nTự nhiên muốn trẻ liên tục hoạt động. Nhu cầu vận động là thiết yếu trong thời thơ ấu và sẽ giảm dần khi lớn lên. Vận động giúp tạo ra phương tiện/công cụ để thúc đẩy ý chí – thúc đẩy sự phát triển thành thục của trí lực. Bởi vậy, càng được hoạt động theo ý muốn/ thôi thúc nội tại của mình, trẻ càng phát triển. Cuộn thảm, đánh bóng giày, cọ sàn nhà hay bồn rửa, sắp xếp lại bàn, đóng và mở hộp, cửa đi và cửa sổ, sắp xếp phòng, ….là các hoạt động cần sự phối hợp, tham gia của toàn bộ cơ thể, hệ cơ, các cử động tinh tế. Thông qua thói quen làm việc tốt, trẻ học cách di chuyển tay và cánh tay, tăng cường sự dẻo dai của các cơ trên cơ thể tốt hơn rất nhiều so với việc tập các bài tập thể dục. Tuy nhiên, càc hoạt động thực hanh cuộc sống không được coi như các động tác thể dục đơn giản, mà đó là “công việc”. Sự hứng khởi và thích thú của trẻ trong quá trình hoạt động làm cho công việc trở nên tươi mới và không mệt mỏi. Đó là các hoạt động tự nhiên, con người nên có mục tiêu khi hoạt động. Hệ cơ là công cụ phục vụ/ biểu đạt cho trí lực và bởi vậy bảo toàn sự thống nhất chức năng của chúng với nhân cách của con người. Trẻ cũng học cách di chuyển/ hoạt động lịch sự và tránh các hoạt động không cần thiết. Càng kiểm soát được hoạt động của mình, trẻ càng được trải nghiệm tự do, bởi người lớn sẽ không còn ngăn cấm trẻ hoạt động vì sợ trẻ làm tổn hại đến bản thân trẻ hay môi trường. \n\n- Để đạt được sự bình thường hóa \nNhư đ~ đề cập đến trong Module 1 (Chương Các thời kì nhạy cảm), trong giai đoạn từ 0- 7 tuổi mọi trẻ đều trải qua thời kì nhạy cảm – thời kì tồn tại trong trẻ những thôi thúc mạnh mẽ nhất định để có những trải nghiệm cần thiết cho sự phát triển. Tuy nhiên, nếu những thôi thúc này bị kìm nén bởi môi trường hay bởi người lớn, điều đó cũng đồng nghĩa với việc trẻ không có cơ hội được trải nghiệm thực sự, trẻ có xu hướng lệch lạc. Thời kì nhạy cảm về EPL cũng bắt đầu và kết thúc trong giai đoạn 0-7 tuổi, và đòi hỏi trẻ làm các hoạt động cần thiết. Tất cả chúng ta đều thấy được niềm vui thích của trẻ khi tham gia vào các hoạt động thường ngày như cọ, rửa, nấu ăn, cắt…Thỏa mãn những thôi thúc nội tại giúp trẻ đạt được sự bình thường hóa – đó cũng là mục tiêu tinh thần cốt lõi của EPL.\n\n- Để phát triển tình thương lớn \nBằng cách thực hiện các hoạt động chăm sóc bản thân, chăm sóc môi trường, chăm sóc các thực thể sống và thực hành lịch sự, nh~ nhặn, trẻ sẽ phát triển tình yêu với toàn cầu, với muôn loài. Trẻ có xu hướng hòa bình và là một người có trách nhiệm – trách nhiệm với mọi thứ, như thể SỰ QUAN TÂM trở thành một phần của bản chất con người trẻ.\n\n- Để tránh sự rối loạn nhân cÁch\nNhững trẻ là người hướng nội và thiếu tự tin thực ra là bị người lớn từ chối, cự tuyệt trong quá trình học tập của mình. Sau này, khi lớn lên trẻ học cách nấu nướng và sử dụng các loại máy móc thiết bị khác, tuy nhiên sẽ không đạt được sự hoàn hảo cũng như không cảm nhận được những thôi thúc tự nhiên dẫn tới niềm hạnh phúc khi trải nghiêm EPL, là bởi trẻ không được cung cấp cơ hội để thực hành tại đúng thời điểm/ đúng độ tuổi. Bác sĩ Montessori đ~ khẳng định “các thời kì nhạy cảm” là giai đoạn đỉnh cao mà tự nhiên cho phép con người học mọi thứ một cách tốt nhất. Thời kì này là hữu hạn. Do đó, chúng ta phải nhận biết được những thôi thúc nội tại trong trẻ bằng cách quan sát trẻ - quan sát xem hoạt động nào là hoạt động trẻ thấy hứng thú nhất. Nếu trẻ lặp đi lặp lại một hoạt động…điều đó có nghĩa thời kì nhạy cảm về hoạt động đó đang diễn ra. Trong thời kì này phải cung cấp tối đa cho trẻ những cơ hội để trải nghiệm nhằm giúp trẻ đạt được sự phát triển và học tập hiệu quả nhất. \nIII. Nhóm các hoạt động thực hành cuộc sống\nBao gồm 4 nhóm:\n- Hoạt động cơ bản\n• Hoạt động cơ bản sơ cấp: Bao gồm các chuyển động/ cử động rất đơn giản như cách cầm nắm, đặt đồ vật. Các hoạt động này được hoàn thành trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ: cách giữ, mang và đặt bình, cốc, khay, thìa… \n• Hoạt động cơ bản: Nâng cao và phức tạp hơn một chút so với hoạt động cơ bản sơ cấp, tuy nhiên cũng được hoàn thành trong một khoảng thời gian ngắn. Ví dụ: Cuộn và trải chiếu, Gấp và mở chiếu, mở và đóng nắp chai, đổ gạo từ bình này sang bình khác. \n• Hoạt động cơ bản nâng cao: Logic và phức tạp hơn một chút so với hoạt động cơ bản. Ví dụ: cắt theo đường thẳng, di chuyển hạt đậu bằng thìa, sử dụng ống nhỏ giọt. \n- Chăm sóc bản thân: Giúp trẻ chăm sóc bản thân, đạt được sự tự tin và chỉn chu.Ví dụ: Chải đầu, đánh răng, mặc đồ…\n- Văn hóa ứng xử: Trẻ học cách lịch sự, sử dụng các cách thức cơ bản, và cách sống trong x~ hội. Ví dụ: Cách mang ghế, cách giữ trật tự, cách nói cảm ơn, xin lỗi…\n- Chăm sóc môi trường: Thực hành chăm sóc cả môi trường bên trong và bên ngoài lớp học. Cách giữ vệ sinh sạch sẽ, khôi phục và duy trì điều kiện sống thích hợp. Ví dụ đối với chăm sóc môi trường bên trong: đánh bóng thau, rửa bát, phủi bụi, cắm hoa… Ví dụ đối với chăm sóc môi trường bên ngoài: nhặt lá khô, tưới cây.\n\n",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:862336587799449600/activity"
},
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860822226877931520",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "CÁC NGUYÊN TẮC TRONG PHƯƠNG PHÁP MONTESSORI <br />“Giáo dục không nên chỉ chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức mà phải tạo ra được định hướng mới, tìm kiếm giải phóng những tiềm năng của con người.” <br />Dr. Maria Montessori <br />I. Hoạt động và tự lập. <br />- Niềm yêu thích hoạt động: được nhân đôi bởi vì trẻ có mong muốn hoàn thành mọi thứ <br /> Sự yêu thích hoạt động và mong ước khám phá mọi thứ là 2 yếu tố cực kỳ quan trọng đối với một em bé. <br /> Một trong những hoạt động quan trọng của em bé là: bắt chước người lớn, và đây là hoạt động quan trọng trong việc hình thành xã hội loài người. <br /> Lớp học Montessori tập trung vào hoạt động để trẻ học chứ không phải vào giáo viên dạy học. <br /> Các em học một mình hoặc theo nhóm tự chọn, rất hiếm khi cả lớp cùng học một hoạt động. <br /> Sự tự lập<br /> Trưởng thành có nghĩa là tự lập. Yếu tố cực kỳ quan trọng để cá nhân hóa là trẻ phải có khả năng thể hiện chính con người mình. Để lớn lên và phát triển, trẻ cần phải biết cách tự lập. <br /> Vậy: khi nào trẻ cần bắt đầu tự làm mọi việc mà không cần sự giúp đỡ của chúng ta? <br /> Câu trả lời rất đơn giản: ngay khi trẻ chào đời, đó chính là lúc trẻ tự làm được việc của mình. Điều này được trẻ bộc lộ lặp lại nhiều lần. <br /> Giúp trẻ tự làm mọi việc tức là chúng ta đang giúp trẻ tự lập <br /> Chúng ta giúp trẻ bằng cách cho trẻ những vật/việc mà trẻ có thể tự làm việc và có thể học để thành thạo. Nguyên tắc này cần được, phải được áp dụng trong chính gia đình từ khi nhỏ nhất có thể. Trẻ phải được cho những vật/đồ chơi giúp trẻ tự làm được. <br /> Ví dụ: Để dạy trẻ để dạy trẻ tự chải đầu, ta phải đưa cho trẻ một chiếc gương nhỏ, lược nhỏ và một lược chải phù hợp <br /> Để trẻ tự rửa tay, ta phải cho trẻ một số vừa với chiều cao, tầm với của trẻ. Khi trẻ tự làm được việc thì trẻ sẽ rất vui sướng. <br /> Trẻ tự đi được và không cần phải có sự nâng đỡ của người khác, và trẻ sẽ thành công trong việc tự đi sau một khoảng thời gian.<br /> Nói cách khác, bạn đã thấy một em bé 15 tuổi nào còn phải bế ẵm chưa? Về mặt vật lý thì không có, nhưng về mặt tinh thần, lý trí thì cha mẹ và giáo viên đang làm việc “bế ẵm” đó cho con trẻ của mình. Sự “giúp đỡ” đó vô cùng tác hại với trẻ. Mục đích tổng thể của giáo dục là trao cho trẻ những trợ giúp cần thiết, chứ không phải trợ giúp không cần thiết, để trẻ phát triển bản thân. Điều này có nghĩa, người lớn cần phải xem xét lại bản thân mình xem đã hiểu trẻ chưa. Tự hoạt động do đó trở thành nguyên lý cơ bản trong giáo dục. <br /> Tuy nhiên cần lưu ý: Tự do trong khuôn khổ: Tự do của trẻ luôn tồn tại trong những khuôn khổ nhất định được xem xét cẩn trọng trong các hành vi của trẻ. Trẻ được tự do để làm bất cứ điều gì trong những quy tắc nhất định của cộng đồng và sẽ bị ngăn chặn một cách nhanh chóng và dứt khoát nếu chúng vượt qua giới hạn. <br /><br />II. Môi trường được chuẩn bị <br /><br />- Montessori phát hiện ra rằng từ độ tuổi từ 3-6 tuổi liên tục hấp thụ và học từ môi trường xung quanh chứ không cần phải dạy dỗ như quan điểm truyền thống. <br />- Nếu trẻ tự học được từ môi trường thì chúng ta cần phải chuẩn bị môi trường phù hợp với nhu cầu của trẻ. <br />- Một lớp học Montessori phải khác với lớp học truyền thống vì đó là ngôi nhà trẻ thơ; là nơi trẻ sống như chính trong nhà mình. Thế giời bên ngoài quá phức tạp với trẻ, mặt khác sự thôi thục tự nhiên đối với hoạt động và tự lập của trẻ sẽ làm phiền môi trường của người lớn. Do đó, lớp học Montessori được thiết kế phù hợp với nhu cầu tự nhiên của trẻ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu nội tại để giúp trẻ ở trạng thái bình thường và cá tính ổn định, linh hoạt. <br />- Môi trường phải được thiết kế để đáp ứng nhu cầu, sở thích, khả năng, và sự phát triển của trẻ trong lớp học. Giáo viên nên thiết kế và thay đổi môi trường phù hợp với nhóm trẻ về: tư duy, giáo cụ luôn sẵn sàng trong trạng thái có thể thay thế, cách xắp xếp, tông màu lớp học để phù hợp với nhu cầu thay đổi của trẻ<br /><br /> III. Tất cả mọi thứ phải có kích thước phù hợp với trẻ.<br /> Bàn, ghế, bồn rửa… đều phải có kích thước nhỏ phù hợp với trẻ; ở lớp học Montessori, tất cả giáo cụ đều được đặt ở giá thấp, trong tầm với của trẻ<br /><br /> IV. Tập trung vào sự tiến bộ và phát triển của từng cá nhân trẻ. Trong chương trình Montessori, tiến trình cho mỗi em bé là khác nhau. Chỉ chuyển tiếp sang bước tiếp theo trong mỗi góc học khi trẻ đã sẵn sàng. Mặc dù mỗi trẻ sống và học tập trong một lớp học nhiều trẻ (thế giới), nhưng mỗi bé được nhìn nhận như một (thế giới) riêng biệt. <br /><br />V. Môi trường lớp học như 1 gia đình. <br />- Các lớp học Montessori là một cộng đồng gồm trẻ nhỏ và người lớn <br />- Khi trẻ lớn hơn và có nhiều kỹ năng hơn, các em sẽ có vai trò lớn trong việc chăm nom môi trường và giúp đỡ các em nhỏ hơn trong lớp. <br />- Lớp học ít tập trung vào giáo viên mà dành sự tập trung đó vào CỘNG ĐỒNG trẻ nhỏ và người lớn, khiến mọi người cảm giác đó như một gia đình<br /><br /> VI. Hợp tác và làm việc nhóm <br />--Trẻ ở lớp học Montessori được khích lệ để đối xử nhã nhặn và tôn trọng người khác, hiếm khi trẻ có hành vi xúc phạm hay xa lánh. <br />-Thay vào đó, trẻ yêu quý nhau, không cần phải cạnh tranh để có được sự chú ý hay công nhận từ người khác vì trẻ có con đường phát triển riêng của mình và giáo viên không bao giờ so sánh trẻ với nhau. <br /><br />VII. Vai trò của người lớn. <br />- Giáo viên Montessori thường được gọi là người hướng dẫn trong lớp học. Không giống như trong các trường truyền thống, Montessori sắp xếp các giáo cụ Montessori cụ thể theo mức độ phát triển (độ tuổi, từ dễ đến khó của giáo cụ, từ cụ thể…) của các em tại các giá thấp để các em tự khám phá, tự làm việc với giáo cụ mình đã chọn. <br />- Khi đúng thời điểm, GIÁO VIÊN sẽ giới thiệu cách hoạt động từng giáo cụ tới từng em một nếu như em đồng ý. <br />- Với sự hỗ trợ và hướng dẫn như thế này, chúng ta sẽ có những em bé hạnh phúc, khỏe mạnh, ổn định, bình thường, linh hoạt và được trang bị những kỹ năng như đọc, viết, khả năng giải quyết vấn đề, và sáng tạo <br /><br />VIII. Lớp học trộn độ tuổi.<br /><br /> - “Mixed Age Group”: Trộn độ tuổi Là nguyên tắc quan trọng trong môi trường Montessori. Các em sẽ được học theo nhóm độ tuổi chứ không phải theo lớp, theo cấp độ, hay các tiêu chuẩn nhất định. Trẻ từ 3-6 tuổi vào một nhóm học cùng nhau chứ không phân chia theo từng nhóm nhỏ, đó gọi là “lớp học trộn độ tuổi”. <br />- Lớp học là một thế giới nhỏ nơi các tương tác lành mạnh xảy ra: Thế giới bên ngoài, các cá thể tương tác với nhau, phụ thuộc vào nhau trong một cộng đồng. Sự độc lập của từng trẻ chỉ được thể hiện khi được trao cơ hội để cho và nhận. Cho và nhận không thể xảy ra, trên thực tế, nếu tất cả các thành viên trong nhóm có cùng nhu cầu, cùng cách thức và cùng một lúc. Do đó, khi trộn độ tuổi, trẻ lớn sẽ giúp trẻ nhỏ hơn. Khi giúp đỡ các em nhỏ hơn, các em lớn sẽ trở thành những cá thể mạnh hơn và tốt hơn. Khi nhận được sự giúp đỡ một cách tự nhiên, trẻ nhỏ hơn cũng sẽ giúp đỡ trẻ lớn hơn. <br />- Cách tương tác này sẽ tạo ra một tập thể kết nối mà chúng ta dễ dàng nhận ra được. Các giáo viên ở Ngôi nhà Montessori nhận thấy các bạn mới làm thế nào để quen được với môi trường ở đây. Đó là nhờ các bạn lớn hơn giúp đỡ các em nhỏ hơn. Các bạn mới nhanh chóng hòa đồng khi có trẻ lớn hơn giúp đỡ. Điều này chỉ có thể xảy ra khi trẻ được học chung một lớp. <br />- Nói theo một cách khác chúng tôi thấy rằng các trẻ lớn chịu trách nhiệm với các trẻ nhỏ một cách tự nhiên, tinh thần trách nhiệm này khiến cho người quan sát thấy ngạc nhiên. Điều này được thấy rõ khi các em mới đến lớp. Các em lớn tận tình hướng dẫn các em nhỏ và rất trách nhiệm với các em. Điều này chỉ thấy được trong lớp học trộn độ tuổi <br />- Một cộng đồng đoàn kết sẽ tự nhiên được tạo ra, sự ghen tị, ghen ghét sẽ biến mất. Trẻ thường không có những đức tính này mà thường do người lớn tạo ra làm trẻ học theo. <br />-Khi ta nhìn nhận mỗi trẻ là một cá thể độc nhất, chúng ta sẽ không so sánh trẻ với nhau. Ở lớp học Montessori, giáo viên không được phép so sánh trẻ. Tuy nhiên, trẻ tự tạo ra những so sánh lành mạnh với nhau. Trẻ thường khen ngợi và khoe với các bạn tác phẩm của bạn mình: Đẹp quá! Bạn con làm đó. Lớp học trộn độ tuổi tạo ra nhiều cơ hội để trẻ phát triển các đức tính tốt của mình. <br />- Các nhà giáo dục thường nhấn mạnh rằng cạnh tranh tốt cho sự phát triển. Điều này đúng nếu nó tạo ra động lực cho sự phát triển tốt hơn. Nhưng thực tế, người lớn thường gây ra cạnh tranh không lành mạnh. Trẻ nhỏ tự biết so sánh với tinh thần vui vẻ và khâm phục lẫn nhau. Trẻ nhỏ không cạnh tranh với trẻ lớn và ngược lại. <br />- Có một quy định không nói ra nhưng ai cũng hiểu đó là trẻ chỉ được làm việc với những giáo cụ đã được giới thiệu cho trẻ. Trẻ có thấy học cụ của các tuổi khác nhưng phải tự kiềm chế bản thân. Đó là cách trẻ tự biết kiềm chế bản thân của mình và thông qua đó, trẻ sẽ rèn luyện sức mạnh Ý CHÍ- một yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống. Chúng tôi nhận thấy rằng việc trộn độ tuổi đảm bảo sự phân phối khôn ngoan về giáo cụ cho trẻ ở mọi lứa tuổi. Nếu lớp học chỉ có 1 độ tuổi thì sẽ có nhu cầu cao hơn về cùng loại giáo cụ và một vài giáo cụ sẽ nằm trên giá bởi chúng không được sử dụng do trẻ chưa đạt tới hoặc vượt qua giai đoạn sử dụng giáo cụ đó. <br />- Kỷ luật trong lớp luôn được tôn trọng bởi các bạn lớn hơn thì luôn biết tuân theo, các bạn nhỏ sẽ bắt chước các bạn lớn, nên không cần phải bị nhắc nhở liên tục. <br />- Em bé nhìn thấy anh chị lớn làm thì có mong muốn đưa ra yêu cầu giáo viên hướng dẫn với hoạt động đó. Nếu anh chị lớn nhìn thấy em bé làm hoạt động mà mình từng làm thì như được sống lại với các hoạt động đó, điều nay như một sự củng cố cho trẻ với những gì đã thành thạo <br /><br />IX. Cụ thể hóa các trừu tượng. <br />- Nếu chúng ta được hỏi về cách chế tạo tên lửa, chắc chắn chúng ta không làm được. Nhưng nếu được hỏi về công thức làm một món tráng miệng nào đó, chúng ta có thể làm được. Lý do là vì chúng ta chưa có kinh nghiệm cụ thể về tên lửa, nhưng đã làm món tráng miệng, hoặc đã nhìn thấy mẹ từng làm. <br />- Điều này có ý nghĩa quan trọng là: những luồng ý tưởng trừu tượng đến trong trí óc của chúng ta từ những kinh nghiệm cụ thể đã trải qua. <br />-o Trong lớp học Montessori, vì trẻ mới bắt đầu quá trình học tập nên điều quan trọng là phải tạo cho trẻ những kinh nghiệm cụ thể hơn là những kiến thức trừu tượng trên sách vở. Do đó, tất cả các giáo cụ trong lớp học đều rất cụ thể. Ví dụ như khối nhị thức thể hiện đẳng thức (a+b)2<br />- Trong lớp học Montessori, trẻ hiếm khi học từ sách vở mà tất cả đều trực tiếp sờ tay lên giáo cụ, tất cả đều là những thứ có thật hay mô hình cụ thể, từ đó sẽ mang đến những khái niệm trừu tượng vào cuộc sống, giúp trẻ học và hiểu sâu hơn<br /><br /> X. Các hoạt động cá nhân. <br />- Trong lớp học Montessori, trẻ được tự do lựa chọn hoạt động của mình dựa trên ý thích của trẻ. Và điều này giúp ích cho việc thúc đẩy nội tại phát triển của trẻ. Giáo viên chỉ giúp đỡ khi cần thiết.<br />- Trong lớp học Montessori, học theo nhóm không phải bị cấm mà ít khi được thực hành",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/860822226877931520",
"published": "2018-07-03T10:00:12+00:00",
"source": {
"content": "CÁC NGUYÊN TẮC TRONG PHƯƠNG PHÁP MONTESSORI \n“Giáo dục không nên chỉ chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức mà phải tạo ra được định hướng mới, tìm kiếm giải phóng những tiềm năng của con người.” \nDr. Maria Montessori \nI. Hoạt động và tự lập. \n- Niềm yêu thích hoạt động: được nhân đôi bởi vì trẻ có mong muốn hoàn thành mọi thứ \n Sự yêu thích hoạt động và mong ước khám phá mọi thứ là 2 yếu tố cực kỳ quan trọng đối với một em bé. \n Một trong những hoạt động quan trọng của em bé là: bắt chước người lớn, và đây là hoạt động quan trọng trong việc hình thành xã hội loài người. \n Lớp học Montessori tập trung vào hoạt động để trẻ học chứ không phải vào giáo viên dạy học. \n Các em học một mình hoặc theo nhóm tự chọn, rất hiếm khi cả lớp cùng học một hoạt động. \n Sự tự lập\n Trưởng thành có nghĩa là tự lập. Yếu tố cực kỳ quan trọng để cá nhân hóa là trẻ phải có khả năng thể hiện chính con người mình. Để lớn lên và phát triển, trẻ cần phải biết cách tự lập. \n Vậy: khi nào trẻ cần bắt đầu tự làm mọi việc mà không cần sự giúp đỡ của chúng ta? \n Câu trả lời rất đơn giản: ngay khi trẻ chào đời, đó chính là lúc trẻ tự làm được việc của mình. Điều này được trẻ bộc lộ lặp lại nhiều lần. \n Giúp trẻ tự làm mọi việc tức là chúng ta đang giúp trẻ tự lập \n Chúng ta giúp trẻ bằng cách cho trẻ những vật/việc mà trẻ có thể tự làm việc và có thể học để thành thạo. Nguyên tắc này cần được, phải được áp dụng trong chính gia đình từ khi nhỏ nhất có thể. Trẻ phải được cho những vật/đồ chơi giúp trẻ tự làm được. \n Ví dụ: Để dạy trẻ để dạy trẻ tự chải đầu, ta phải đưa cho trẻ một chiếc gương nhỏ, lược nhỏ và một lược chải phù hợp \n Để trẻ tự rửa tay, ta phải cho trẻ một số vừa với chiều cao, tầm với của trẻ. Khi trẻ tự làm được việc thì trẻ sẽ rất vui sướng. \n Trẻ tự đi được và không cần phải có sự nâng đỡ của người khác, và trẻ sẽ thành công trong việc tự đi sau một khoảng thời gian.\n Nói cách khác, bạn đã thấy một em bé 15 tuổi nào còn phải bế ẵm chưa? Về mặt vật lý thì không có, nhưng về mặt tinh thần, lý trí thì cha mẹ và giáo viên đang làm việc “bế ẵm” đó cho con trẻ của mình. Sự “giúp đỡ” đó vô cùng tác hại với trẻ. Mục đích tổng thể của giáo dục là trao cho trẻ những trợ giúp cần thiết, chứ không phải trợ giúp không cần thiết, để trẻ phát triển bản thân. Điều này có nghĩa, người lớn cần phải xem xét lại bản thân mình xem đã hiểu trẻ chưa. Tự hoạt động do đó trở thành nguyên lý cơ bản trong giáo dục. \n Tuy nhiên cần lưu ý: Tự do trong khuôn khổ: Tự do của trẻ luôn tồn tại trong những khuôn khổ nhất định được xem xét cẩn trọng trong các hành vi của trẻ. Trẻ được tự do để làm bất cứ điều gì trong những quy tắc nhất định của cộng đồng và sẽ bị ngăn chặn một cách nhanh chóng và dứt khoát nếu chúng vượt qua giới hạn. \n\nII. Môi trường được chuẩn bị \n\n- Montessori phát hiện ra rằng từ độ tuổi từ 3-6 tuổi liên tục hấp thụ và học từ môi trường xung quanh chứ không cần phải dạy dỗ như quan điểm truyền thống. \n- Nếu trẻ tự học được từ môi trường thì chúng ta cần phải chuẩn bị môi trường phù hợp với nhu cầu của trẻ. \n- Một lớp học Montessori phải khác với lớp học truyền thống vì đó là ngôi nhà trẻ thơ; là nơi trẻ sống như chính trong nhà mình. Thế giời bên ngoài quá phức tạp với trẻ, mặt khác sự thôi thục tự nhiên đối với hoạt động và tự lập của trẻ sẽ làm phiền môi trường của người lớn. Do đó, lớp học Montessori được thiết kế phù hợp với nhu cầu tự nhiên của trẻ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu nội tại để giúp trẻ ở trạng thái bình thường và cá tính ổn định, linh hoạt. \n- Môi trường phải được thiết kế để đáp ứng nhu cầu, sở thích, khả năng, và sự phát triển của trẻ trong lớp học. Giáo viên nên thiết kế và thay đổi môi trường phù hợp với nhóm trẻ về: tư duy, giáo cụ luôn sẵn sàng trong trạng thái có thể thay thế, cách xắp xếp, tông màu lớp học để phù hợp với nhu cầu thay đổi của trẻ\n\n III. Tất cả mọi thứ phải có kích thước phù hợp với trẻ.\n Bàn, ghế, bồn rửa… đều phải có kích thước nhỏ phù hợp với trẻ; ở lớp học Montessori, tất cả giáo cụ đều được đặt ở giá thấp, trong tầm với của trẻ\n\n IV. Tập trung vào sự tiến bộ và phát triển của từng cá nhân trẻ. Trong chương trình Montessori, tiến trình cho mỗi em bé là khác nhau. Chỉ chuyển tiếp sang bước tiếp theo trong mỗi góc học khi trẻ đã sẵn sàng. Mặc dù mỗi trẻ sống và học tập trong một lớp học nhiều trẻ (thế giới), nhưng mỗi bé được nhìn nhận như một (thế giới) riêng biệt. \n\nV. Môi trường lớp học như 1 gia đình. \n- Các lớp học Montessori là một cộng đồng gồm trẻ nhỏ và người lớn \n- Khi trẻ lớn hơn và có nhiều kỹ năng hơn, các em sẽ có vai trò lớn trong việc chăm nom môi trường và giúp đỡ các em nhỏ hơn trong lớp. \n- Lớp học ít tập trung vào giáo viên mà dành sự tập trung đó vào CỘNG ĐỒNG trẻ nhỏ và người lớn, khiến mọi người cảm giác đó như một gia đình\n\n VI. Hợp tác và làm việc nhóm \n--Trẻ ở lớp học Montessori được khích lệ để đối xử nhã nhặn và tôn trọng người khác, hiếm khi trẻ có hành vi xúc phạm hay xa lánh. \n-Thay vào đó, trẻ yêu quý nhau, không cần phải cạnh tranh để có được sự chú ý hay công nhận từ người khác vì trẻ có con đường phát triển riêng của mình và giáo viên không bao giờ so sánh trẻ với nhau. \n\nVII. Vai trò của người lớn. \n- Giáo viên Montessori thường được gọi là người hướng dẫn trong lớp học. Không giống như trong các trường truyền thống, Montessori sắp xếp các giáo cụ Montessori cụ thể theo mức độ phát triển (độ tuổi, từ dễ đến khó của giáo cụ, từ cụ thể…) của các em tại các giá thấp để các em tự khám phá, tự làm việc với giáo cụ mình đã chọn. \n- Khi đúng thời điểm, GIÁO VIÊN sẽ giới thiệu cách hoạt động từng giáo cụ tới từng em một nếu như em đồng ý. \n- Với sự hỗ trợ và hướng dẫn như thế này, chúng ta sẽ có những em bé hạnh phúc, khỏe mạnh, ổn định, bình thường, linh hoạt và được trang bị những kỹ năng như đọc, viết, khả năng giải quyết vấn đề, và sáng tạo \n\nVIII. Lớp học trộn độ tuổi.\n\n - “Mixed Age Group”: Trộn độ tuổi Là nguyên tắc quan trọng trong môi trường Montessori. Các em sẽ được học theo nhóm độ tuổi chứ không phải theo lớp, theo cấp độ, hay các tiêu chuẩn nhất định. Trẻ từ 3-6 tuổi vào một nhóm học cùng nhau chứ không phân chia theo từng nhóm nhỏ, đó gọi là “lớp học trộn độ tuổi”. \n- Lớp học là một thế giới nhỏ nơi các tương tác lành mạnh xảy ra: Thế giới bên ngoài, các cá thể tương tác với nhau, phụ thuộc vào nhau trong một cộng đồng. Sự độc lập của từng trẻ chỉ được thể hiện khi được trao cơ hội để cho và nhận. Cho và nhận không thể xảy ra, trên thực tế, nếu tất cả các thành viên trong nhóm có cùng nhu cầu, cùng cách thức và cùng một lúc. Do đó, khi trộn độ tuổi, trẻ lớn sẽ giúp trẻ nhỏ hơn. Khi giúp đỡ các em nhỏ hơn, các em lớn sẽ trở thành những cá thể mạnh hơn và tốt hơn. Khi nhận được sự giúp đỡ một cách tự nhiên, trẻ nhỏ hơn cũng sẽ giúp đỡ trẻ lớn hơn. \n- Cách tương tác này sẽ tạo ra một tập thể kết nối mà chúng ta dễ dàng nhận ra được. Các giáo viên ở Ngôi nhà Montessori nhận thấy các bạn mới làm thế nào để quen được với môi trường ở đây. Đó là nhờ các bạn lớn hơn giúp đỡ các em nhỏ hơn. Các bạn mới nhanh chóng hòa đồng khi có trẻ lớn hơn giúp đỡ. Điều này chỉ có thể xảy ra khi trẻ được học chung một lớp. \n- Nói theo một cách khác chúng tôi thấy rằng các trẻ lớn chịu trách nhiệm với các trẻ nhỏ một cách tự nhiên, tinh thần trách nhiệm này khiến cho người quan sát thấy ngạc nhiên. Điều này được thấy rõ khi các em mới đến lớp. Các em lớn tận tình hướng dẫn các em nhỏ và rất trách nhiệm với các em. Điều này chỉ thấy được trong lớp học trộn độ tuổi \n- Một cộng đồng đoàn kết sẽ tự nhiên được tạo ra, sự ghen tị, ghen ghét sẽ biến mất. Trẻ thường không có những đức tính này mà thường do người lớn tạo ra làm trẻ học theo. \n-Khi ta nhìn nhận mỗi trẻ là một cá thể độc nhất, chúng ta sẽ không so sánh trẻ với nhau. Ở lớp học Montessori, giáo viên không được phép so sánh trẻ. Tuy nhiên, trẻ tự tạo ra những so sánh lành mạnh với nhau. Trẻ thường khen ngợi và khoe với các bạn tác phẩm của bạn mình: Đẹp quá! Bạn con làm đó. Lớp học trộn độ tuổi tạo ra nhiều cơ hội để trẻ phát triển các đức tính tốt của mình. \n- Các nhà giáo dục thường nhấn mạnh rằng cạnh tranh tốt cho sự phát triển. Điều này đúng nếu nó tạo ra động lực cho sự phát triển tốt hơn. Nhưng thực tế, người lớn thường gây ra cạnh tranh không lành mạnh. Trẻ nhỏ tự biết so sánh với tinh thần vui vẻ và khâm phục lẫn nhau. Trẻ nhỏ không cạnh tranh với trẻ lớn và ngược lại. \n- Có một quy định không nói ra nhưng ai cũng hiểu đó là trẻ chỉ được làm việc với những giáo cụ đã được giới thiệu cho trẻ. Trẻ có thấy học cụ của các tuổi khác nhưng phải tự kiềm chế bản thân. Đó là cách trẻ tự biết kiềm chế bản thân của mình và thông qua đó, trẻ sẽ rèn luyện sức mạnh Ý CHÍ- một yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống. Chúng tôi nhận thấy rằng việc trộn độ tuổi đảm bảo sự phân phối khôn ngoan về giáo cụ cho trẻ ở mọi lứa tuổi. Nếu lớp học chỉ có 1 độ tuổi thì sẽ có nhu cầu cao hơn về cùng loại giáo cụ và một vài giáo cụ sẽ nằm trên giá bởi chúng không được sử dụng do trẻ chưa đạt tới hoặc vượt qua giai đoạn sử dụng giáo cụ đó. \n- Kỷ luật trong lớp luôn được tôn trọng bởi các bạn lớn hơn thì luôn biết tuân theo, các bạn nhỏ sẽ bắt chước các bạn lớn, nên không cần phải bị nhắc nhở liên tục. \n- Em bé nhìn thấy anh chị lớn làm thì có mong muốn đưa ra yêu cầu giáo viên hướng dẫn với hoạt động đó. Nếu anh chị lớn nhìn thấy em bé làm hoạt động mà mình từng làm thì như được sống lại với các hoạt động đó, điều nay như một sự củng cố cho trẻ với những gì đã thành thạo \n\nIX. Cụ thể hóa các trừu tượng. \n- Nếu chúng ta được hỏi về cách chế tạo tên lửa, chắc chắn chúng ta không làm được. Nhưng nếu được hỏi về công thức làm một món tráng miệng nào đó, chúng ta có thể làm được. Lý do là vì chúng ta chưa có kinh nghiệm cụ thể về tên lửa, nhưng đã làm món tráng miệng, hoặc đã nhìn thấy mẹ từng làm. \n- Điều này có ý nghĩa quan trọng là: những luồng ý tưởng trừu tượng đến trong trí óc của chúng ta từ những kinh nghiệm cụ thể đã trải qua. \n-o Trong lớp học Montessori, vì trẻ mới bắt đầu quá trình học tập nên điều quan trọng là phải tạo cho trẻ những kinh nghiệm cụ thể hơn là những kiến thức trừu tượng trên sách vở. Do đó, tất cả các giáo cụ trong lớp học đều rất cụ thể. Ví dụ như khối nhị thức thể hiện đẳng thức (a+b)2\n- Trong lớp học Montessori, trẻ hiếm khi học từ sách vở mà tất cả đều trực tiếp sờ tay lên giáo cụ, tất cả đều là những thứ có thật hay mô hình cụ thể, từ đó sẽ mang đến những khái niệm trừu tượng vào cuộc sống, giúp trẻ học và hiểu sâu hơn\n\n X. Các hoạt động cá nhân. \n- Trong lớp học Montessori, trẻ được tự do lựa chọn hoạt động của mình dựa trên ý thích của trẻ. Và điều này giúp ích cho việc thúc đẩy nội tại phát triển của trẻ. Giáo viên chỉ giúp đỡ khi cần thiết.\n- Trong lớp học Montessori, học theo nhóm không phải bị cấm mà ít khi được thực hành",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860822226877931520/activity"
},
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860376200746856448",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "là Group dành cho giáo viên và PH Montessori<br />",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/860376200746856448",
"published": "2018-07-02T04:27:51+00:00",
"source": {
"content": "là Group dành cho giáo viên và PH Montessori\n",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860376200746856448/activity"
},
{
"type": "Create",
"actor": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"object": {
"type": "Note",
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860370049019887616",
"attributedTo": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729",
"content": "cộng đồng giáo viên và Montessori",
"to": [
"https://www.w3.org/ns/activitystreams#Public"
],
"cc": [
"https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/followers"
],
"tag": [],
"url": "https://www.minds.com/newsfeed/860370049019887616",
"published": "2018-07-02T04:03:24+00:00",
"source": {
"content": "cộng đồng giáo viên và Montessori",
"mediaType": "text/plain"
}
},
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/entities/urn:activity:860370049019887616/activity"
}
],
"id": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/outbox",
"partOf": "https://www.minds.com/api/activitypub/users/859620085617139729/outboxoutbox"
}